Buổi chiều tháng ba, mặt trời sắp tắt nắng xa xa phía biển đỏ rựng ráng hoàng hôn, thượng tá Nguyễn Văn Cảnh dẫn tôi tới thăm xóm Trung Nghĩa. Trước lúc vào làng anh Cảnh đã cung cấp cho tôi một số tình hình đặc điểm xứ này: Trung Nghĩa hầu hết bà con đều theo đạo thiên chúa giáo, sống đoàn kết thuỷ chung nhưng chỉ hiềm một nổi ngư dân sống bằng nghề chài lưới lại nghèo nhất huyện Lộc Hà. Sự nghèo đói không phải do mọi người biếng nhác mà do nhiều nguyên nhân kết nối làm cho họ bất lực trước biển.
Trước mặt tôi là nhà chị Trần Thị Thu, người phụ nữ đang ngồi trên chiếc ghế nhựa, bón cháo cho đứa con 8 tháng. Đứa bé không được bụ bẫm như những đứa trẻ sinh thành khác bởi mẹ đẻ xong được 2 tháng thì thiếu sữa. Tôi không phải là bác sĩ nên không rõ căn nguyên nhưng có một dự đoán khá chắc chắn rằng : sự thiếu dinh dưởng của người mẹ sẽ ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ của cháu bé. Người phụ nữ này gầy xọp đi, với đôi tay đen đúa sần sùi. Tôi nghĩ gia đình chị nghèo là phải... Có lẽ về công tác truyền thông dân số kế hoạch hoá gia đình của thôn và xã chưa lọt được tai chị chăng. Bởi chưa đầy tuổi ba mươi người phụ nữ này đã có 3 con. Đứa con đầu là Trần Văn Quốc mới học lớp 4, đứa con thứ 2 Trần Nam Khương 4 tuổi.
Chị Thu buồn bã nói: “Cả nhà em sống nhờ vào biển nhưng mấy năm nay biển cá mất mùa, nhà mô nhà nấy đều thiếu ăn cả. Em đang kêu chính quyền công nhận hộ nghèo để có thêm chính sách hỗ trợ nhưng chờ mãi cũng chưa đến lượt mình..”. Chị cũng không dấu diếm gia đình chị là người đói gạo triền miên, nhiều bữa phải chạy đôn chạy đáo để vay gạo hàng xóm. Xóm đạo Trung Nghĩa tuy nghèo nhưng "lá rách ít đùm lá rách nhiều” có người cho hẳn chị dăm cân gạo, người cho vài chai nước mắm, người biếu bó chè xanh. Nhờ vậy gia đình chị Thu mới vượt được qua cơn bĩ cực. Đặc biệt là những lúc vợ chồng con cái ốm đau. Do túng thiếu nên chị Thu thường ngại dùng điện, chị chỉ dùng bóng đèn thắp đủ sáng, việc đun nấu vẫn là chiếc kiềng ba chân truyền thống cùng với lá cây củi khô gom lượm về. Gian nhà chật chội được dựng lên bằng thứ gạch tập lô, để cả nhà nương thân mưa nắng. Thế nhưng chị Thu đang ngày đêm lo ngay ngáy vì chuyện món nợ cả gốc và lãi 30 triệu đồng cho Ngân hàng nông nghiệp huyện Lộc Hà. Chị Thu đưa cho tôi xem một tờ giáy báo nợ với nội dung thúc dục đầy tính cấp bách “Nếu đúng thời hạn quy định mà không trả nợ, ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn và phạt bằng 130% cho lãi suất ..”.
Khi nợ đã thúc thì không ai trốn được nợ đặc biệt là ngân hàng. Một phụ nữ ở cạnh nhà vào chơi và góp thêm chuyện: “Xóm ni vay tiền ngân hàng không riêng gì nhà o Thu đâu, mà có tới hàng chục nhà. Xã Thạch Bằng giờ đất chật người đông, đối với những người khổ như bọn tôi cùng đường mới chạy ra ngoài bãi này. Đất ni đất ngập nước mặn nên mưa bão to là sụt lở, nền làm không khéo sụt xuống thì hỏng nhà chú ơi..”. Qua tìm hiểu người dân Trung Nghĩa này đã chịu sống chung với cảnh mưa, bão làm tốc mái. Trẻ em bà già nằm co ro trong cảnh gió mùa đông bắc tê tái là chuyện thường. Họ chỉ mong có cái nền nhà kiên cố, không có tổ chức và lòng từ thiện hảo tâm nào tài trợ thì họ phải nhắm mắt vay tiền ngân hàng để “kiên cố hoá” nền nhà. Chính vì lẽ đó mà tôi hiểu thêm căn nguyên và nổi khổ chị Thu hiện tại không phải là kẻ cố tình “xù nợ” mà họ chưa làm ra tiền để trả.
Chủ thuyền cũng khổ
Chợt anh Trần văn Khiêm (chồng chị Thu) vừa đi mò dắt ở ngoài bãi đê về, mặc dầu chân và tay đang còn bê bết bùn nhưng anh Khiêm vẫn đưa giỏ dắt và giục vợ đưa nhanh ra chợ bán để kiếm ít lon gạo cho bữa ăn ngày mai.. Anh Khiêm phân bua: “Chẳng dấu gì các bác em là bạn thuyền với chủ thuyền ông Trần Văn Kính nhưng mấy năm ni làm ăn cùng cực quá các bác ơi. Năm 2010, bão lụt uy hiếp thì không nói nữa rồi.. Nhưng năm ngoái lại ni nghề cá bọn em cũng lụn bại luôn. Lụn bại vì hai lý do: Một do giá xăng dầu đắt. Hai là nguồn cá, tôm, mực ngày càng hiếm”. Khiêm lý giải tiếp “Cứ 1 ngày đêm đi khơi, thuyền ăn dầu phải tới 4 xách (4 can loại 25 lít) mất đứt 100 lít dầu là 3,2 triệu đồng rồi. Nhưng có bữa một mẻ cá chỉ được 2 triệu đồng..”.
Ngồi một lúc trong nhà thấy hơi bức bối, anh Trần Văn Khiêm dẫn tôi ra gặp chủ thuyền Trần Văn Kính. Người đàn ông này trạc tuổi bốn mươi, dáng hình chắc khoẻ. Ông Kính lấy chai rượu trắng ở đầu mui thuyền ra rót mỗi người một chén cụng ly rồi chùng giọng nói “Nghe tiếng chủ thuyền tưởng là giàu và oai lắm nhưng ai ăn nhạt mới biết thương mèo. Làng Trung Nghĩa này chủ thuyền và bạn thuyền đều nghèo cả”.
Trời bắt đầu sâm sẩm tối, sóng biển đuổi nhau vỗ ì oạp dưới chân thuyền. Ông Kính chủ thuyền đưa tay chỉ ra ngoài trùng khơi và nói: “Cách đây năm năm những ngày đẹp trời thuyền đánh cá dàn hàng ngang trên biển sáng rực như hội hoa đăng. Bây giờ từ cửa biển nhìn ra chỉ thấy mươi đèn cá leo lét”. Dốc cạn ly rượu suông ông Kính thở dài: “Thất vọng quá chú ơi, chính người mình cũng làm khổ mình luôn, không ít kẻ đánh cá nổ mìn “phá rạo” người ta, dẫn tới cá chết hàng loạt. Bữa ni nổ mìn, mai cũng nổ mìn lấy đâu ra cá mà bắt. Nhiều lúc bọn tôi thấy đó nhưng cứ im lặng, dong thuyền sang hướng khác, dây vào bọn chúng chỉ có thiệt thân..”. Lần giở lý lịch đánh cá chủ thuyền Trần Văn Kính ba đời đều thuộc diện lương thiện và có kỹ năng nắm bắt khai thác ngư trường. Chẳng bao giờ ông sử dụng tới “vật liệu nổ” vì ông nghĩ rằng “của độc’’ đó là sa vào tội phá ngư trường vừa có khi nguy hiểm tới tính mạng.
Ông Kính theo cha bám biển từ lúc 15 tuổi, bây giờ đã bước vào tuổi tứ tuần, nghĩa là 25 năm ông đã trải nghiệm được niềm vui nỗi buồn của những ngư dân “ cày sóng”. Đã có lúc sóng xô thuyền dạt mất cả lưới chài vậy mà ngẩm lại sự đời của ngư dân chưa bao giờ buồn bã như lúc này. Ông Kính ngậm ngùi: “Chú Khiêm theo thuyền tui đi đánh cá, thuyền tui có 6 người, nhưng đứa nào cũng nghèo rớt mùng tơi cả. Bữa nào đánh khá lãi dăm sáu triệu thì trừ tiền xăng dầu, khấu hao thuyền và ngư cụ ra còn được vài ba trăm ngàn. Chủ và bạn thuyền đều hể hả xem như chuyến đi “hên”. Nhưng khá nhiều bữa lãi được khoảng 1 triệu đồng, chia ra người chỉ được 50 ngàn bạc..”.
Càng đi sâu vào thực tế mới thấu được cảnh đời ngư dân cũng khổ không kém gì diêm dân. Một người bán mặt trên ruộng muối nắng như lữa nung, một người lên đênh trên sóng cả suốt đêm chỉ vì miếng cơm manh áo nhưng cả xóm Trung Nghĩa đều cùng cảnh ngộ thiếu cơm ăn, áo mặc. Đến chủ thuyền cũng khổ nên nhiều chủ thuyền đã tìm cách ly hương. Người tham gia lao động xuất khẩu, kẻ theo người thân vào Tây Nguyên tìm đất trồng cà phê, cao su.. Thời thịnh hành nghề cá, xóm Trung Nghĩa đã sắm được 26 con thuyền đánh cá, nhưng do làm ăn thua lỗ, đặc biệt ba năm lại nay do giá xăng dầu tăng cao, nhiều chủ thuyền không đủ sức theo đuổi nghề cá nữa buộc họ phải bán thuyền. Hiện tại trong thôn chỉ còn 11 thuyền đang cầm cự nhưng số phận của những ngư dân này sẽ chưa biết ra sao khi nắm được nguồn thông tin từ đài báo giá xăng dầu tiếp tục được “phi hành”.
Họ đang sống trong ô nhiễm
Khi mẻ than hoa đã bắt đầu bén lửa, chị Trần Thị Việt đưa chiếc quạt nan to bè, quạt lấy quạt để.. Mùi cá nướng bốc lên thơm lừng, những con cá trích, cá nục sau khi nướng xong được xếp thành từng lớp gọn gàng trong rổ. Chờ đến sáng mai đưa ra chợ. Tôi có cảm giác dường như họ chỉ được hưởng cái thơm của cá trong ba bốn tiếng đồng hồ. Bởi khi mùi cá nướng tan đi thì những gia đình đang định cư ở vùng lầy ngập mặn này bị mùi hôi trước bãi lầy bao vây cả vào bữa ăn giấc ngủ.
Chị Việt cho biết: “Tháng ba gió nhẹ còn đỡ hôi hám còn tiết tháng năm tháng sáu gió mạnh mùi hôi nồng nặc cả xóm, người nào cũng kêu không tài chi ngủ được..”. Cơ cực nhất là giếng nước, dùng dây gầu múc lên đổ vào chậu nước đen ngòm mùi thum thủm..Thế nhưng không ít gia đình vẫn dùng thứ nước này để tắm giặt. Họ đâu biết những mầm bệnh nguy hiểm đang tiềm ẩn trong cơ thể họ. Xóm Trung Nghĩa dẫu đã có đưòng ống dẫn nước sạch về nhà, nhưng nước sạch chỉ “ưu tiên đặc biệt” cho việc nấu ăn. Có khi cả tuần mất nước nhiều gia đình phải quảy thùng đi xin nước tận làng bên.. Cái bãi lầy án ngự họ càng dày dấu vết thời gian càng tích tụ đủ các loài rác không biết ở đâu trôi dạt về đây. Những xác rác túi ni long lâu ngày nằm vật vờ rêu phủ, chưa ai dọn đi thì lại tiếp tục có thêm bạn mới.
Tôi mạnh dạn đặt chân xuống bãi lầy chợt thấy một người đàn ông đang lúi húi tìm mồi để đi câu.. Mặc dù người đàn ông kia bảo tôi đừng đi ra xa nữa vì sẽ vướng phải “mìn tự tạo”. Tôi tưởng họ đùa ai ngờ “mìn tự tạo” của dân biển cứ phô ra chình ình.. Thật khủng khiếp khi tôi đứng lại gần chiếc thuyền hỏng đã mục nát nằm bên gốc sú thì gặp ngay một xác con lợn chết đang thối rữa của nhà ai vứt xuống đây. Chưa hết những lông gà, lông vịt và cả những vỏ chai mảnh thuỷ tinh vỡ được đổ xuống góp thêm mùi xú uế đặc biệt cho làng Trung Nghĩa.
Lời nguyện cầu của dân
Câu chuyện mà tôi kể trên đây tuy chưa có hồi kết nhưng cũng là điều chứng kiến tận mắt khi trở về làng đạo Trung Nghĩa tháng ba này. Gặp cán bộ nào từ tỉnh hay huyện xuống thăm họ cũng có những điều ước nguyện: ước nguyện thứ nhất trợ cấp gạo cứu đói cho họ vì giáp hạt họ đang thiếu ăn trầm trọng; ước nguyện thứ hai nhà nuớc và chính quyền địa phương tỉnh cần có chính sách hổ trợ giá xăng dầu, giá mua sắm ngư cụ để họ tiếp tục sống được bằng nghề khai thác ngư trường; ước nguyện thứ ba là vì sức khoẻ lâu dài của các gia đình xóm đạo nên sớm tập trung xây dựng, cải tạo lại bãi lầy bằng đê kè vững chắc và hệ thống thoát nước bẩn để dân sớm được hít thở không khí trong lành..
Ba điều ước ấy nghe ra có vẻ không cầu kỳ nhưng thực hiện được đâu phải dễ dàng trọn vện được cả ba. Tuy còn gian nan, bà con ở đây vẫn tin sớm muộn cũng được đổi đời khi tất cả đều có đôi mắt: Nhìn ra biển lớn.
PHAN THẾ CẢI