Phát triển nuôi cá tra VietGAP

Theo định hướng phát triển thủy sản ĐBSCL được Chính phủ phê duyệt, đến năm 2020 nuôi cá tra cơ bản phải theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.
Để nhân rộng mô hình này, ngày 17/8 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã phối hợp với tỉnh Trà Vinh tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ nông nghiệp lần 8 với chủ đề: “Phát triển nuôi cá tra theo hướng VietGAP”.
TS Nguyễn Quang Sáng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II cho biết: Kết quả điều tra hiện trạng quản lý chất lượng giống trong thời gian qua là không đồng đều và không đảm bảo chất lượng, chỉ có 5/8 tỉnh kiểm dịch con giống; 6 tỉnh có kiểm tra vệ sinh thú y cơ sở sản xuất (SX) kinh doanh con giống; 2 tỉnh có tham gia kiểm tra điều kiện vệ sinh và qui trình SX thức ăn, thuốc, hóa chất; 6 tỉnh có kiểm tra điều kiện cửa hàng kinh doanh thức ăn, thuốc thú y thủy sản; 6 tỉnh có tập huấn về quản lý chất lượng, kỹ thuật SX giống và hướng dẫn văn bản quản lý.
Chính việc kiểm dịch, kiểm tra không được đồng bộ đã dẫn đến chất lượng giống không đồng đều, không tốt làm ảnh hưởng lớn đến người nuôi.
Về nguồn giống cá hậu bị và bố mẹ mới có 5,2%/khoảng 152 trại SX cá bột có đàn cá bố mẹ đã qua chọn lọc di truyền từ Viện II; 31,3% cơ sở tuyển chọn cá bố mẹ từ nguồn cá tự nhiên, 6% cơ sơ mua giống bố mẹ không rõ nguồn gốc từ tư thương. Điều đáng quan ngại, là có đến 57,4% số cơ sở tự chọn lựa từ đàn cá nuôi thịt chuyển sang cá bố mẹ. Những vấn đề trên đã làm hạn chế rất lớn đến việc thực hiện qui trình nuôi theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP trong việc truy xuất nguồn giống con giống.
Để giải bài toán con giống cá tra, từ năm 2001 Viện II đã thực hiện chương trình chọn giống cá tra trên tính trạng kháng bệnh gan, thận mủ, SX thành công trên 100.000 con cá tra hậu bị để cung cấp cho các trại SX giống ở các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ...
Cá hậu bị và cá bố mẹ qua chọn lọc có gắn chíp điện tử PTT là giải pháp giúp người nuôi truy cập được nguồn gốc theo chuẩn của VietGAP, GlobalGAP. Khi tạo ra con giống có tốc độ tăng trưởng cao hơn 12,4% đã giúp tăng năng suất và giảm được giá thành trong quá trình nuôi, giảm thời gian nuôi xuống khoảng 10%, tỷ lệ phi lê tăng thêm 0,83%, bán được giá cao.
Ông Sáng nói: Giải pháp nâng cao chất lượng giống cá tra đang rất cấp bách là cần xây dựng chương trình KH-CN quốc gia cho cá tra; nâng cao năng lực và tăng cường quản lý chất lượng; tổ chức lại SX theo hình thức tập thể như thành lập và phát triển chi hội, tổ hợp, HTX SX cá bột và giống chất lượng cao ở các địa phương.
Xây dựng chương trình SX giống cá tra chất lượng cao đến năm 2020 cho từng vùng, từng tỉnh; Cần một chính sách ổn định trong SX giống như chính sách ưu đãi về cơ sở vật chất và vốn; chính sách ưu tiên cho KH-CN SX giống cá tra. Khi giống đảm bảo chất lượng cao là một giải pháp thuận cho quá trình SX cá tra thương phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Lý, PGĐ Trung tâm Chứng nhận phù hợp QUACERT (Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường-chất lượng) nói: VietGAP là quy phạm thực hành nông nghiệp tốt được xây dựng dựa trên 4 tiêu chí cơ bản là đảm bảo an toàn dịch bệnh, an toàn môi trường, an toàn xã hội và truy xuất được nguồn gốc sản phẩm.
Do đó, việc áp dụng VietGAP là bước cần thiết nhằm đưa nghề nuôi thủy sản nói chung, cá tra nói riêng vào khuôn khổ, đồng thời từng bước hướng tới những tiêu chuẩn quốc tế như SQF, GlobalGAP, ASC, BRC… nhằm xây dựng và bảo vệ thương hiệu cá tra Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Đối với hiện trạng của việc áp dụng các tiêu chuẩn GAP thì hiện nay các cơ sở nuôi cá tra đã và đang từng bước áp dụng mô hình SX đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, tuy nhiên việc chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP vẫn chưa được thực hiện do chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể hoặc đã có nhưng còn nhiều bất cập.
Một số DN nuôi cá tra ở ĐBSCL đã tiến hành áp dụng tiêu chuẩn GlobalGAP, tuy nhiên số lượng nhà SX cá tra được chứng nhận còn quá ít. Tại hội nghị giải pháp phát triển cá tra vùng ĐBSCL tổ chức tại Cần Thơ ngày 4/8/2010, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát đã nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan trọng là phải nỗ lực bảo vệ và phát triển thị trường xuất khẩu, tăng cường nâng cao chất lượng vùng nuôi, chế biến. Đặc biệt là đẩy mạnh việc nuôi cá tra theo quy trình GlobalGAP”.
Và việc áp dụng VietGAP được coi là nền tảng hướng tới các tiêu chuẩn quốc tế. Thế nhưng đã qua 2 năm việc nuôi cá tra theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP ở ĐBSCL chỉ đếm trên đầu ngón tay. Với hiện trạng này thì lộ trình mà Bộ NN-PTNT đặt ra đến năm 2015 có 30% cơ sở nuôi thủy sản thâm canh, bán thâm canh cải tiến đạt tiêu chuẩn VietGAP, đến 2020 có 80% cơ sở đạt tiêu chuẩn này là không mấy giản đơn.
Trong khi đó, theo thỏa thuận ghi nhớ được ký kết giữa đại diện Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) với đại diện Hiệp hội Chế biến & XK thủy sản VN (VASEP) và Hội Nghề cá Việt Nam, lộ trình áp dụng tiêu chuẩn ASC (dán nhãn chứng nhận hàng đầu thế giới đối với thủy sản) cũng được xác định “để đáp lại việc cá tra được đưa ra khỏi danh sách đỏ”.
Cụ thể: Đến năm 2014, sẽ phấn đấu có 75% lượng cá tra xuất khẩu đạt bất cứ một tiêu chuẩn quốc tế nào về phát triển cá tra bền vững, trong đó có 30% được chứng nhận ASC. Đến năm 2015 là 100% lượng cá tra xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt tiêu chuẩn quốc tế về phát triển bền vững, trong đó 50% được chứng nhận ASC.

Thạc sĩ Kim Văn Tiêu, PGĐ Trung tâm Khuyến nông Quốc gia nói: Việc áp dụng và chứng nhận VietGAP là nền tảng, là điều kiện tiên quyết để các nhà nuôi trồng và chế biến cá tra phải hướng tới đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế GlobalGAP, ASC… Đây cũng là giải pháp bảo vệ thương hiệu cá tra Việt Nam và giữ vững thị trường xuất khẩu trong thời gian tới.

Theo Nông Nghiệp Việt Nam
 

Phân loại tin: