Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là hiểu rõ hơn về biển, về tiềm năng, lợi thế cũng như các tác động bất lợi từ biển; thúc đẩy khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên biển theo hướng bền vững; gìn giữ chất lượng môi trường nước biển; duy trì chức năng sinh thái và năng suất sinh học của các hệ sinh thái biển góp phần thực hiện thành công Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Nghiên cứu làm rõ khả năng xảy ra các tai biến tự nhiên
Một trong các nhiệm vụ của Chiến lược là nghiên cứu, điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển. Trong đó, lập quy hoạch tổng thể, tổ chức điều tra, nghiên cứu làm rõ khả năng xảy ra các tai biến tự nhiên gồm tai biến địa động lực (động đất, hoạt động các đứt gãy, phun trào, sóng thần, sụt lở đáy biển, thay đổi kiến tạo nền đáy biển), các tai biến khí tượng, thủy hải văn (bão, tố, lốc, nước dâng, xói lở, bồi tụ bất thường, biến đổi địa hình đáy biển, luồng lạch, sóng cát di động) và các tai biến liên quan đến sự cố, thảm họa môi trường.
Về tài nguyên khoáng sản, sẽ tập trung điều tra, đánh giá làm rõ hơn tiềm năng sa khoáng ilmenit – zircon – đất hiếm và các kim loại quý (Sn, Au) dọc theo dải bờ biển và vùng biển nông; dầu khí trên các vùng biển; phát hiện các biểu hiện, điều kiện thuận lợi tập trung kết hạch sắt – mangan Biển Đông, sa khoáng có casiterit và vàng đi kèm ở đáy biển, khí hydrate ở các vùng biển sâu…
Bên cạnh đó, đánh giá, xác định rõ tài nguyên, trữ lượng các loại khoáng sản, vật liệu xây dựng vùng ven bờ, đặc biệt là các trường cát, kể cả ngoài khơi từ độ sâu 100 mét nước trở lên. Chú trọng đầu tư phương tiện, trang thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ công tác điều tra, nghiên cứu và phát hiện các tài nguyên mới ở các vùng biển sâu, biển xa, các đảo xa bờ.
Phát triển năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai
Nhiệm vụ khác của Chiến lược là phát triển năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, tác động của biến đổi khí hậu trên các vùng biển.
Cụ thể, nâng cấp, từng bước hiện đại, tự động hoá các trạm quan trắc khí tượng hải văn biển, liên kết với các trạm quan trắc môi trường. Bên cạnh đó, hiện đại hóa hệ thống dự báo áp thấp nhiệt đới, bão trên biển đủ độ chính xác; nghiên cứu quy luật diễn biến, hướng đi, các vùng thường xuyên bị ảnh hưởng để có biện pháp phòng ngừa, chủ động ứng phó với bão, áp thấp nhiệt đới trên biển, vùng biển ven bờ.
Đồng thời, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm sóng thần liên thông với hệ thống cảnh báo khu vực và thế giới; điều tra, quan sát, lập sơ đồ dòng chảy, hướng di chuyển các dòng hải lưu trên Biển Đông theo mùa và trên các vùng biển, xác định các điểm, khu vực nước xoáy nguy hiểm thường xuyên hoặc theo mùa và thông báo để ngư dân, các phương tiện hàng hải phòng tránh.
Thiết lập cơ chế đồng quản lý, quyền khai thác và hưởng lợi từ mặt nước biển ven bờ
Cũng theo Quyết định, sẽ thiết lập cơ chế đồng quản lý, quyền khai thác và hưởng lợi từ mặt nước biển ven bờ, ven các đảo dựa trên các tiếp cận thị trường có sự định hướng và điều tiết của Nhà nước trên nguyên tắc không gian, mặt nước, tài nguyên biển thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý.
Rà soát cơ cấu sử dụng đất vùng ven biển, xem xét việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường, sự phù hợp với đặc tính sinh thái của từng vùng, độ mở ra biển để có hướng điều chỉnh trong dài hạn; lập quy hoạch sử dụng đất ven biển bảo đảm sử dụng đất hiệu quả, hợp lý, phù hợp với đặc tính sinh thái của từng vùng, bảo vệ các vùng đất ngập nước, các khu rừng ngập mặn, rừng chắn sóng, chắn cát.
Theo Hoàng Diên/Chinhphu.vn, 09/09/2013