Gần đây, trước những yêu cầu của các tiêu chuẩn nuôi trồng thủy sản bền vững do các tổ chức phi chính phủ xây dựng , Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt tại Việt Nam
MARD - 25/10/2012) Gần đây, trước những yêu cầu của các tiêu chuẩn nuôi trồng thủy sản bền vững do các tổ chức phi chính phủ xây dựng , Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt tại Việt Nam (VietGAP). Đây là yêu cầu cấp thiết hiện nay của ngành thủy sản nhằm khẳng định chất lượng thủy sản Việt Nam trên trường quốc tế, nhưng để triển khai thành công VietGAP thì rất cần sự hỗ trợ từ phía nhà nước cũng như nỗ lực rất lớn từ các bên có liên quan trong việc thuyết phục người tiêu dùng và cộng đồng quốc tế chấp nhận bộ tiêu chuẩn này.
Rối chứng nhận thủy sản quốc tế
Theo Tổng cục Thủy sản, hiện nay nước ta có nhiều hệ thống chứng nhận độc lập về việc đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất nông nghiệp bền vững do các tổ chức phi chính phủ sáng lập như: BAP, GlobalGAP, MSC, MetroGAP, ASC, IFORM, SQF… Tuy nhiên, tất cả các bộ tiêu chuẩn này đều dựa trên cơ sở hướng dẫn nuôi trồng thủy sản bền vững của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) với 4 nội dung cơ bản phải tuân thủ là: an toàn thực phẩm, sức khỏe và an sinh động vật nuôi, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo trách nhiệm xã hội. Song, mỗi hệ thống chứng nhận này chỉ đi sâu vào một số khía cạnh nào đó theo các yêu cầu của FAO để hình thành nên các bộ tiêu chuẩn khác nhau. Kế tiếp, các tổ chức sáng lập hệ thống chứng nhận này sẽ chọn thị trường mục tiêu và dùng các biện pháp tác động lên các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng tại một số quốc gia nào đó để yêu cầu nước sản xuất phải đạt được các chứng nhận này. Sự phát triển quá nhiều bộ tiêu chuẩn chứng nhận độc lập như trên đã làm người nuôi trồng thủy sản bối rối. Việc tuân thủ các quy chuẩn này thường làm tăng chi phí sản xuất, dẫn đến các sản phẩm đạt chuẩn có giá thành cao hơn so với sản phẩm được sản xuất theo cách truyền thống, từ đó làm giảm tính cạnh tranh. Ngoài ra, các hệ thống chứng nhận này thường xem nhẹ các cơ sở nhỏ, bởi chỉ có các cơ sở sở nuôi trồng thủy sản quy mô lớn mới có đủ kinh phí để xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng vùng nuôi đáp ứng yêu cầu của các tiêu chuẩn để được chứng nhận.
Theo ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, để có được chứng nhận MSC của Hội đồng Bảo tồn biển quốc tế thì phải có 100 ngàn USD cho lần chứng nhận đầu với thời hạn 1 năm, và 12 ngàn USD/năm cho những lần tái chứng nhận. Đối với chứng nhận GlobalGAP, phí chứng nhận tương đối rẻ hơn nhưng cũng phải tốn 8 ngàn USD cho năm đầu chứng nhận và các lần chứng nhận sau phải trả 2 ngàn USD. Trong khi đó, một cơ sở nuôi muốn xuất khẩu vào nhiều thị trường thì phải đạt nhiều loại chứng nhận khác nhau, dẫn đến chi phí cho việc có các chứng nhận này là rất lớn.
Trước tình trạng này, để giải quyết khó khăn cho người sản xuất cũng như xây dựng thương hiệu cho ngành thủy sản nội địa, các quốc gia có nghề nuôi trồng thủy sản phát triển trên thế giới đã xây dựng và tiến hành chứng nhận các tiêu chuẩn quốc gia riêng như: Thái Lan có ThaiGAP, Trung Quốc có ChinaGAP, Đài Loan có TaiwanGAP, Ma-lai-xi-a có MALAYSIA AQUAFRAM CERTIFICATION SCHEME (SPLAM),…
VietGAP – thương hiệu thủy sản Việt Nam
Cũng theo xu hướng chung này, tại Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt tại Việt Nam (VietGAP) - là quy phạm thực hành áp dụng trong nuôi trồng thủy sản nhằm đảm bảo các yêu cầu về an toàn thực phẩm, giảm thiểu dịch bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái, đảm bảo trách nhiệm xã hội và truy nguyên nguồn gốc sản phẩm với trọng tâm là kiểm soát quá trình nuôi thương phẩm và các yếu tố đầu vào.
Bà Trần Thị Thu Nga, Giám đốc Trung tâm Chuyển giao Công nghệ, Dịch vụ và Phát triển cộng đồng Nông Ngư nghiệp Việt Nam (FACOD) và là thành viên ban soạn thảo VietGAP cho biết, VietGAP trong nuôi trồng thủy sản được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các quy định chung của FAO (CoC, 1995 - Điều 19 và TGAC, 2011- Mục 18) cũng như pháp luật Việt Nam. VietGAP là bộ quy phạm chung cho nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam phù hợp với xu thế chung về chứng nhận GAP, mở ra khả năng sử dụng VietGAP cho các loài nuôi khác nhau và thuận lợi cho việc tham chiếu các quy định mới. Điều đáng chú ý là nội dung VietGAP chỉ có 68 tiêu chí, đơn giản hơn nhiều so với hơn 200 tiêu chí của các hệ thống chứng nhận khác (như GlobalGAP) và được xây dựng phù hợp với điều kiện sản xuất tại Việt Nam.
Theo bà Nga, mục tiêu chính của VietGAP là nhằm tăng cường quản lý để phát triển bền vững năng suất và sản lượng, chất lượng và an toàn thực phẩm, môi trường sinh thái, an toàn xã hội, từ đó tiến tới xây dựng thương hiệu, nâng cao hình ảnh của sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế, là cơ sở chống bôi nhọ sản phẩm thủy sản Việt Nam. Việc ra đời của tiêu chuẩn này cũng nhằm tạo cơ hội cho các cơ sở nuôi vừa và nhỏ tham gia thị trường, tiếp cận các dịch vụ; nâng cao nhận thức của người sản xuất về sản xuất hàng hóa, chứng nhận sản phẩm, tiếp cận và đáp ứng nhu cầu của thị trường; nâng cao chất lượng của các sản phẩm nuôi trồng thủy sản mà không làm tăng quá mức chi phí sản xuất, và là nền tảng của hệ thống chứng nhận nuôi trồng thủy sản tự nguyện, tận dụng kinh nghiệm, nguồn lực.
Nhiều lãnh đạo cơ quan quản lý thủy sản địa phương cũng nhận định rằng, việc áp dụng VietGAP trong nuôi trồng thủy sản sẽ giúp thay đổi dần tập quán sản xuất, suy nghĩ của nông dân cũng như doanh nghiệp về sản xuất bền vững; tạo sự liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà quản lý bền chặt hơn, giúp quá trình tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi, lợi nhuận trong chuỗi sản xuất được phân phối hợp lý, từ đó góp phần đưa ngành thủy sản Việt Nam phát triển ổn định và bền vững. Đồng thời, nếu cơ sở nuôi thủy sản có nhu cầu chứng nhận các tiêu chuẩn quốc tế khác thì VietGAP cũng là cơ sở để người nuôi trồng thủy sản chuyển đổi dễ dàng với chi phí thấp và những điều chỉnh nhỏ trong sản xuất.
Cần nỗ lực để VietGAP triển khai thành công
Với những điểm nổi bật như trên, có thể nói sự ra đời của VietGAP trong nuôi trồng thủy sản là một yêu cầu cấp thiết hiện nay để xây dựng thương hiệu và phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng VietGAP đại trà đối với các vùng thủy sản trong cả nước vẫn là một con đường đầy gian nan phía trước với những khó khăn phải đối mặt như: cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, thiếu vốn cải tạo hệ thống ao nuôi thủy sản phù hợp với tiêu chuẩn, tập quán sản xuất người dân không quen với việc ghi chép, nhận thức và tập quán của người sản xuất và tiêu dùng về sản phẩm an toàn chưa đầy đủ dẫn đến chưa có sự khác biệt về giá cả giữa sản phẩm sản xuất theo cách truyền thống với sản phẩm đạt chuẩn,… Đặc biệt, hiện chuẩn VietGAP chưa được thị trường quốc tế công nhận là bộ tiêu chuẩn đạt yêu cầu về an toàn thực phẩm.
Do đó, để bộ tiêu chuẩn VietGAP trong nuôi trồng thủy sản được triển khai thành công, Nhà nước cần hỗ trợ nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi, đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng thủy sản. Quan trọng hơn, theo ông Tưởng Phi Lai, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tài Nguyên và Phát triển nông thôn (RECERD), cần phải có sự nỗ lực rất lớn của Tổng cục Thủy sản, Hội Nghề cá Việt Nam (VINAFISH), Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) và các bên liên quan, gồm cả người nuôi và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trong việc thuyết phục người tiêu dùng và cộng đồng quốc tế chấp nhận VietGAP.
Theo Tổng cục Thủy sản, hiện nay nước ta có nhiều hệ thống chứng nhận độc lập về việc đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất nông nghiệp bền vững do các tổ chức phi chính phủ sáng lập như: BAP, GlobalGAP, MSC, MetroGAP, ASC, IFORM, SQF… Tuy nhiên, tất cả các bộ tiêu chuẩn này đều dựa trên cơ sở hướng dẫn nuôi trồng thủy sản bền vững của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) với 4 nội dung cơ bản phải tuân thủ là: an toàn thực phẩm, sức khỏe và an sinh động vật nuôi, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo trách nhiệm xã hội. Song, mỗi hệ thống chứng nhận này chỉ đi sâu vào một số khía cạnh nào đó theo các yêu cầu của FAO để hình thành nên các bộ tiêu chuẩn khác nhau. Kế tiếp, các tổ chức sáng lập hệ thống chứng nhận này sẽ chọn thị trường mục tiêu và dùng các biện pháp tác động lên các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng tại một số quốc gia nào đó để yêu cầu nước sản xuất phải đạt được các chứng nhận này. Sự phát triển quá nhiều bộ tiêu chuẩn chứng nhận độc lập như trên đã làm người nuôi trồng thủy sản bối rối. Việc tuân thủ các quy chuẩn này thường làm tăng chi phí sản xuất, dẫn đến các sản phẩm đạt chuẩn có giá thành cao hơn so với sản phẩm được sản xuất theo cách truyền thống, từ đó làm giảm tính cạnh tranh. Ngoài ra, các hệ thống chứng nhận này thường xem nhẹ các cơ sở nhỏ, bởi chỉ có các cơ sở sở nuôi trồng thủy sản quy mô lớn mới có đủ kinh phí để xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng vùng nuôi đáp ứng yêu cầu của các tiêu chuẩn để được chứng nhận.
Theo ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, để có được chứng nhận MSC của Hội đồng Bảo tồn biển quốc tế thì phải có 100 ngàn USD cho lần chứng nhận đầu với thời hạn 1 năm, và 12 ngàn USD/năm cho những lần tái chứng nhận. Đối với chứng nhận GlobalGAP, phí chứng nhận tương đối rẻ hơn nhưng cũng phải tốn 8 ngàn USD cho năm đầu chứng nhận và các lần chứng nhận sau phải trả 2 ngàn USD. Trong khi đó, một cơ sở nuôi muốn xuất khẩu vào nhiều thị trường thì phải đạt nhiều loại chứng nhận khác nhau, dẫn đến chi phí cho việc có các chứng nhận này là rất lớn.
Trước tình trạng này, để giải quyết khó khăn cho người sản xuất cũng như xây dựng thương hiệu cho ngành thủy sản nội địa, các quốc gia có nghề nuôi trồng thủy sản phát triển trên thế giới đã xây dựng và tiến hành chứng nhận các tiêu chuẩn quốc gia riêng như: Thái Lan có ThaiGAP, Trung Quốc có ChinaGAP, Đài Loan có TaiwanGAP, Ma-lai-xi-a có MALAYSIA AQUAFRAM CERTIFICATION SCHEME (SPLAM),…
VietGAP – thương hiệu thủy sản Việt Nam
Cũng theo xu hướng chung này, tại Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt tại Việt Nam (VietGAP) - là quy phạm thực hành áp dụng trong nuôi trồng thủy sản nhằm đảm bảo các yêu cầu về an toàn thực phẩm, giảm thiểu dịch bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường sinh thái, đảm bảo trách nhiệm xã hội và truy nguyên nguồn gốc sản phẩm với trọng tâm là kiểm soát quá trình nuôi thương phẩm và các yếu tố đầu vào.
Bà Trần Thị Thu Nga, Giám đốc Trung tâm Chuyển giao Công nghệ, Dịch vụ và Phát triển cộng đồng Nông Ngư nghiệp Việt Nam (FACOD) và là thành viên ban soạn thảo VietGAP cho biết, VietGAP trong nuôi trồng thủy sản được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các quy định chung của FAO (CoC, 1995 - Điều 19 và TGAC, 2011- Mục 18) cũng như pháp luật Việt Nam. VietGAP là bộ quy phạm chung cho nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam phù hợp với xu thế chung về chứng nhận GAP, mở ra khả năng sử dụng VietGAP cho các loài nuôi khác nhau và thuận lợi cho việc tham chiếu các quy định mới. Điều đáng chú ý là nội dung VietGAP chỉ có 68 tiêu chí, đơn giản hơn nhiều so với hơn 200 tiêu chí của các hệ thống chứng nhận khác (như GlobalGAP) và được xây dựng phù hợp với điều kiện sản xuất tại Việt Nam.
Theo bà Nga, mục tiêu chính của VietGAP là nhằm tăng cường quản lý để phát triển bền vững năng suất và sản lượng, chất lượng và an toàn thực phẩm, môi trường sinh thái, an toàn xã hội, từ đó tiến tới xây dựng thương hiệu, nâng cao hình ảnh của sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế, là cơ sở chống bôi nhọ sản phẩm thủy sản Việt Nam. Việc ra đời của tiêu chuẩn này cũng nhằm tạo cơ hội cho các cơ sở nuôi vừa và nhỏ tham gia thị trường, tiếp cận các dịch vụ; nâng cao nhận thức của người sản xuất về sản xuất hàng hóa, chứng nhận sản phẩm, tiếp cận và đáp ứng nhu cầu của thị trường; nâng cao chất lượng của các sản phẩm nuôi trồng thủy sản mà không làm tăng quá mức chi phí sản xuất, và là nền tảng của hệ thống chứng nhận nuôi trồng thủy sản tự nguyện, tận dụng kinh nghiệm, nguồn lực.
Nhiều lãnh đạo cơ quan quản lý thủy sản địa phương cũng nhận định rằng, việc áp dụng VietGAP trong nuôi trồng thủy sản sẽ giúp thay đổi dần tập quán sản xuất, suy nghĩ của nông dân cũng như doanh nghiệp về sản xuất bền vững; tạo sự liên kết giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà quản lý bền chặt hơn, giúp quá trình tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi, lợi nhuận trong chuỗi sản xuất được phân phối hợp lý, từ đó góp phần đưa ngành thủy sản Việt Nam phát triển ổn định và bền vững. Đồng thời, nếu cơ sở nuôi thủy sản có nhu cầu chứng nhận các tiêu chuẩn quốc tế khác thì VietGAP cũng là cơ sở để người nuôi trồng thủy sản chuyển đổi dễ dàng với chi phí thấp và những điều chỉnh nhỏ trong sản xuất.
Cần nỗ lực để VietGAP triển khai thành công
Với những điểm nổi bật như trên, có thể nói sự ra đời của VietGAP trong nuôi trồng thủy sản là một yêu cầu cấp thiết hiện nay để xây dựng thương hiệu và phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, việc triển khai áp dụng VietGAP đại trà đối với các vùng thủy sản trong cả nước vẫn là một con đường đầy gian nan phía trước với những khó khăn phải đối mặt như: cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, thiếu vốn cải tạo hệ thống ao nuôi thủy sản phù hợp với tiêu chuẩn, tập quán sản xuất người dân không quen với việc ghi chép, nhận thức và tập quán của người sản xuất và tiêu dùng về sản phẩm an toàn chưa đầy đủ dẫn đến chưa có sự khác biệt về giá cả giữa sản phẩm sản xuất theo cách truyền thống với sản phẩm đạt chuẩn,… Đặc biệt, hiện chuẩn VietGAP chưa được thị trường quốc tế công nhận là bộ tiêu chuẩn đạt yêu cầu về an toàn thực phẩm.
Do đó, để bộ tiêu chuẩn VietGAP trong nuôi trồng thủy sản được triển khai thành công, Nhà nước cần hỗ trợ nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi, đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng thủy sản. Quan trọng hơn, theo ông Tưởng Phi Lai, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tài Nguyên và Phát triển nông thôn (RECERD), cần phải có sự nỗ lực rất lớn của Tổng cục Thủy sản, Hội Nghề cá Việt Nam (VINAFISH), Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) và các bên liên quan, gồm cả người nuôi và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trong việc thuyết phục người tiêu dùng và cộng đồng quốc tế chấp nhận VietGAP.
Thành Công